Nguồn gốc lễ Giổ tổ Hùng Vương
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng – nơi cội nguồn của dân tộc, của đất nước luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân tộc Việt Nam.

Lễ rước kiệu tại lễ hội Đền Hùng
Sự tích ngày Giỗ tổ Hùng Vương được biết đến theo Ngọc phả Hùng Vương ghi chép từ thời Hồng Đức hậu Lê. Theo như sử sách ghi chép lại thì từ thời nhà Đinh, nhà Lý, nhà Tiền Lê cho đến nhà Trần rồi cả nhà Hậu Lê vẫn luôn cùng hương khói trong ngôi đền. Tại đó, người dân thuộc mọi miền tổ quốc đều hướng về và mỗi năm đều đến lễ bái để cầu nguyện cho gia đình cũng như để tưởng nhớ công lao của Đấng Thánh Tổ xưa.
Ngày giỗ Hùng Vương từ lâu đã được các triều đại phong kiến công nhận chính thức và trở thành một trong những ngày quốc lễ mang ý nghĩa trọng đại của dân tộc Việt Nam. Cụ thể là, từ thời xa xưa, các triều đại quân chủ và phong kiến của Việt Nam đã quản lý mật thiết và chặt chẽ Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại thực hiện nhiệm vụ trông nom cũng như sửa chữa hay cúng bái, làm Giỗ Tổ vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.
Theo như truyền thuyết của Lạc Long Quân và Âu Cơ thì ngày Giỗ tổ Hùng Vương lại được xem như là ngày lễ của các thủy tổ của người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Có thể thấy rằng, thời kỳ Hùng Vương có ý nghĩa và vai trò lịch sử cực kỳ quan trọng đối với dân tộc bởi chính thời kỳ này đã rạo lập cũng như xây dựng thành công một nền tảng dân tộc Việt Nam, một nền tảng đậm nét văn hóa Việt Nam và truyền thống yêu nước thủy chung.
Trải qua 18 đời vua Hùng cùng với hàng loạt những khó khăn, gian khổ, biết bao nhiêu những biến cố lịch sử, những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã xảy ra,… Qua đó không chỉ chứng minh được lòng yêu nước mà còn cho thấy một tinh thần dân tộc mạnh mẽ, một sự đồng lòng, nhất quán của cả dân tộc.
Ý nghĩa ngày Giỗ tổ
Giỗ tổ Hùng Vương không phải chỉ đề cao niềm tự hào dân tộc mà còn nhắc nhở chúng ta phải tìm hiểu thấu đáo bản sắc dân tộc, nguồn cội của tổ tiên. Qua đó bản thân mỗi người cần phải rèn luyện đạo đức và tài năng để phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng với công lao của các thế hệ anh hùng dân tộc, với tổ tiên ta ngày trước.

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dù đang sống và làm việc ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng. Trong ngày này, nhân dân cả nước còn có điều kiện để tham gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của con cháu ngày nay đối với các vị Vua Hùng với những bậc tiên nhân đã kiên cường chiến đấu chống lại giặc ngoại xâm giữ nước.
Đây là dịp để chúng ta nhìn nhận lại những biến cố của đất nước qua các thời kỳ đồng thời đặt ra những nhiệm vụ mới cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước. Trải qua các thời kỳ thăng trầm khác nhau và để có được thành quả như ngày hôm nay là nhờ công lao vĩ đại của cả một dân tộc anh hùng. Đặc biệt chúng ta cùng nguyện một lòng mãi mãi khắc ghi lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước – Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Ngày 02/4/2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch). Kể từ đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn – QUỐC LỄ mang ý nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong hồ sơ đề trình UNESCO công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là di sản văn hoá thế giới đã nêu rõ giá trị của di sản là thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên, theo tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” – một truyền thống đạo lý quý báu của dân tộc Việt Nam. Theo đánh giá của các chuyên gia UNESCO, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” đã đáp ứng được tiêu chí quan trọng nhất trong 5 tiêu chí, đó là, di sản có giá trị nổi bật mang tính toàn cầu, khích lệ ý thức chung của mọi dân tộc trong việc thúc đẩy giá trị đó. Vì vậy, ngày 6/12/2012, UNESCO đã chính thức công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ”, biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết, truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Hằng năm vào dịp lễ hàng triệu người dân khắp cả nước đã hội tụ về Đền Hùng – Việt Trì – Phú Thọ để tưởng nhớ công lao của các vị vua Hùng.

Chúng ta tự hào là con Rồng cháu Tiên, là con cháu của các vị vua Hùng đã gây dựng nên đất nước Văn Lang, Âu Lạc và đánh thắng giặc ngoại xâm làm nền móng cho nước Việt Nam ngày nay. Đó là những ngày đầu hoang sơ nhất mở ra một thời kỳ lịch sử huy hoàng cho dân tộc ta. Chúng ta phải ghi nhớ công lao to lớn đó và không ngừng học tập, đóng góp cho xã hội, cùng nhau xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển để sánh vai với các cường quốc năm châu.